Dù mang đậm dấu ấn Việt, bánh ú tro lại có nguồn gốc xa xưa từ vùng Quảng Đông, Trung Quốc, nơi người dân gọi nó là kiềm thủy tống. Tư liệu cổ như “Bản thảo cương mục” của danh y Lý Thời Trân từng ghi chép: “Người xưa dùng cỏ lá tre bao gạo thành bánh có góc nhọn, nấu chín rồi thả xuống sông để tế Khuất Nguyên vào mùng Năm tháng Năm.”

Từ câu chuyện ấy món bánh du nhập vào Việt Nam, rồi được biến tấu cho phù hợp với nguyên liệu và khẩu vị địa phương. Trải qua thời gian, bánh ú tro trở thành món ăn biểu tượng của Tết Đoan Ngọ tức ngày “giết sâu bọ”, xuất hiện trang trọng trong mâm cúng tổ tiên cùng trái cây, chè và xôi. Ngày nay, bánh được làm quanh năm và có mặt ở khắp vùng miền, từ đồng bằng đến miền núi, trở thành món quà quê giản dị mà thân thuộc.

Đặc trưng bánh ú tro món ăn quê thấm đẫm hồn Việt 2

Bánh ú tro có hình tam giác, biểu trưng cho ngọn lửa yếu tố dương, bao bọc phần nhân và nếp là yếu tố thổ mang tính âm. Ảnh minh họa: HUY ĐẠT

Tên gọi “bánh ú tro” hay “bánh gio” bắt nguồn từ nguyên liệu quan trọng nhất là nước tro, hay nước nẳng. Người làm bánh đốt lá tre, rơm rạ hoặc một số loại thảo mộc, sau đó hòa tro với nước vôi trong để tạo thành dung dịch kiềm nhẹ. Gạo nếp được ngâm trong loại nước này cho đến khi hạt gạo trở nên trong, dẻo và thơm nhẹ mùi lá.

Bánh được gói bằng lá dong hoặc lá tre, tạo hình ú nhọn giống nắm tay khum lại như một biểu tượng của sự sum vầy và no đủ. Sau khi luộc chín, lớp nếp trong suốt ánh vàng nâu, thơm dịu, cắn vào dẻo mềm, thanh nhẹ, khác hẳn những loại bánh nếp khác.

Đặc trưng bánh ú tro món ăn quê thấm đẫm hồn Việt 3

Cần giữ lửa đều khi luộc bánh ú tro để bánh không bị sượng. Ảnh minh họa: THANH NGUYÊN

Không chỉ dừng lại ở Việt Nam mà món bánh này còn có “họ hàng” trong văn hóa ẩm thực châu Á. Ở Nhật Bản người ta gọi nó là akumaki, một biến thể của bánh ú tro được người Hoa mang đến vùng Kyushu. Akumaki được làm từ nếp ngâm nước kiềm, gói trong lá tre và nấu chín, thường xuất hiện trong Lễ hội bé trai (Kodomo no Hi) vào ngày 5 tháng 5 hàng năm.

Tương truyền, món bánh này từng là phần lương khô cho các samurai trong Trận Sekigahara (1600) và sau đó là trong cuộc nổi loạn Satsuma (1877) do Saigō Takamori lãnh đạo. Nhờ khả năng bảo quản lâu và vị dẻo thơm đặc trưng, akumaki nhanh chóng trở thành món ăn quen thuộc ở các tỉnh Kagoshima, Miyazaki và Kumamoto.

Nhìn từ góc độ lịch sử, hành trình của bánh ú tro là minh chứng cho sự giao thoa văn hóa ẩm thực giữa các dân tộc Á Đông, nơi mỗi chiếc bánh đều kể lại câu chuyện riêng của vùng đất và con người làm ra nó.

Đặc trưng bánh ú tro món ăn quê thấm đẫm hồn Việt 4

Akumaki biến thể của bánh ú tro tại Nhật Bản. Ảnh minh họa: 楽天市場

Nếu như trước kia bánh ú tro chỉ xuất hiện trong dịp Tết Đoan Ngọ thì nay bạn có thể dễ dàng tìm thấy ở bất kỳ phiên chợ quê hay cửa hàng đặc sản nào. Những đòn bánh treo lủng lẳng bên gánh hàng rong, mùi nếp tro lan tỏa trong gió… Tất cả gợi nên nét đẹp bình dị, gần gũi mà không món bánh hiện đại nào thay thế được.

Nhiều người trẻ tìm về với bánh ú tro như một cách kết nối quá khứ. Bánh không quá ngọt, không béo, thích hợp để thưởng thức cùng tách trà xanh. Cảm giác dẻo mềm tan trong miệng khiến người ta nhớ mãi.

Đặc trưng bánh ú tro món ăn quê thấm đẫm hồn Việt 5

Những đòn bánh được bày bán quen thuộc trong dịp Tết Đoan ngọ. Ảnh minh họa: N.M

Cùng với rượu nếp, bánh ú tro được xem là lễ vật không thể thiếu trong dịp Đoan Ngọ. Nếu rượu nếp tượng trưng cho sự tinh túy của lúa gạo thì bánh ú là hiện thân của đất trời bao bọc, bảo hộ mùa màng. Hai món lễ giản đơn mà lại chứa đựng triết lý sống hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Câu ca dao xưa “Tháng tư đong đậu nấu chè/Ăn Tết Đoan ngọ trở về tháng năm” như lời nhắc nhở: chỉ khi thấy bánh ú tro ta mới thật sự cảm nhận được hương vị của Tết Đoan ngọ.

Đặc trưng bánh ú tro món ăn quê thấm đẫm hồn Việt 6

Bảo quản bánh nơi thoáng mát, với bánh có nhân bạn nên dùng sớm hoặc bảo quản lạnh để tránh hư. Ảnh minh họa: N.M

Bánh ú tro gợi về mùi nếp, mùi tro lá, nhớ Tết Đoan Ngọ và những phiên chợ quê. Món bánh đơn giản về thành phần nhưng phức tạp ở kỹ thuật. Nguyên liệu chính chỉ có gạo nếp và nước tro, nhưng từng bước làm đều đòi hỏi kinh nghiệm và sự tinh tế.

Về Việt Nam bánh được tiếp nhận, biến hóa theo nguồn nguyên liệu địa phương. Ở miền Bắc gọi là bánh nẳng, bánh gio; ở vùng đồng bằng và miền núi có tên gọi khác như bánh coóc mò, bánh âm. Dù tên khác nhau, bản chất vẫn là nếp ngâm nước kiềm rồi gói, luộc.

Ở Việt Nam có nhiều làng nghề làm bánh ú tro nổi tiếng: Đắc Sở (Hoài Đức, Hà Nội), Tây Đình (Vĩnh Phúc), Làng Dòng (Phú Thọ), Quảng Yên (Quảng Ninh), vùng Thanh Sơn (Mường)… Mỗi nơi có biến thể trong nước tro, lá gói và thói quen ăn uống, tạo nên dấu ấn riêng.

Đặc trưng bánh ú tro món ăn quê thấm đẫm hồn Việt 7

Bánh ú tro được bán tại Hội An. Ảnh: THANH NGUYÊN

Gạo nếp: Chọn nếp ngon, hạt đều, dẻo. Nếp nhung hoặc nếp cái hoa vàng thường được ưa chuộng để bánh có độ mượt, không sượng.

Nước tro (nước nẳng): Là linh hồn của bánh ú tro. Tro được lấy từ lá, vỏ quả, cành cây thảo mộc phơi khô rồi đốt. Tro mịn được hòa với nước vôi để tạo nước kiềm. Tùy vùng, người ta dùng tro từ vỏ bưởi, cành xoan, rơm nếp, bẹ cau, lá trầu không… Mỗi loại tro cho màu sắc và mùi vị khác nhau.

Lá gói và lạt: Lá đót, lá dong, lá tre lồ ô thường dùng. Lạt có thể làm từ bẹ chuối phơi khô hoặc ống giang tước sợi.

Nhân (tùy nơi): Truyền thống thường không có nhân, ăn kèm mật hoặc đường. Một số nơi nhồi đậu xanh sên đường hoặc cơm dừa ngào đường.

Sơ chế gạo: Gạo nếp cần được đãi sạch. Sau đó bạn ngâm với nước tro theo kinh nghiệm: thường 5–6 tiếng đến một đêm. Cách kiểm tra là dùng hai đầu ngón tay miết hạt gạo thấy nát mịn, người làm gọi là “bục”. Không ngâm quá lâu vì mùi tro sẽ át hương nếp. Sau ngâm chúng ta vo và xối gạo thật sạch bằng nước mưa hoặc nước giếng để loại tro dư rồi để ráo.

Chuẩn bị nước tro: Tro sau khi đốt được rây mịn, hòa với nước vôi theo tỷ lệ gia truyền, lắng gạn lấy phần nước trong. Cách kiểm tra chất lượng: nhúng lá trầu vào nước khoảng 15–20 giây, lấy ra nhai; nếu nước bọt đỏ như quết trầu thì đạt.

Gói bánh: Lá được hấp hoặc luộc qua để bớt diệp lục, lau khô. Sau đó bạn xếp lá thành phễu, cho nếp vào, gấp kín thành khối tứ diện hoặc hình ú. Dùng lạt buộc chặt. Người ta thường xâu thành chùm, tiện nhấc ra khỏi nồi luộc.

Đặc trưng bánh ú tro món ăn quê thấm đẫm hồn Việt 8

Gói bánh không được để quá lỏng hay gói quá chặt tay. Ảnh minh họa: THANH NGUYÊN

Luộc và hoàn tất: Bánh cho vào nồi, đổ ngập nước, luộc từ 1 đến 4 tiếng tùy kích thước. Bánh chín thì ta vớt ra, nhúng vào nước lạnh để bánh giữ màu và bề mặt sạch. Nhớ là treo ráo ở nơi thoáng gió. Một số nơi bổ sung phụ phẩm như măng tre, măng vòi, lá sậy để tạo màu sắc khác nhau cho bánh.

Hương vị và cách ăn: Thành phẩm ra lò là khối nếp trong, dẻo, hơi dai và có vị rất dịu. Bánh ú tro thường ăn với mật ong, mật đường hoặc đường cát. Khi có nhân, nhân thường là đậu xanh tán mịn hoặc dừa ngào đường. Bánh không quá ngọt, vị thanh mát, dễ chịu thích hợp ăn cả mùa hay làm đồ cúng trong dịp Tết Đoan Ngọ.

Đặc trưng bánh ú tro món ăn quê thấm đẫm hồn Việt 9

Bánh ú tro ăn với mật mía. Ảnh minh họa: Saigoneerc

Từ món bánh của lễ tế Khuất Nguyên đến món quà quê Việt Nam, bánh ú tro đã đi qua nhiều thế kỷ nhưng vẫn giữ nguyên hồn cốt của đất trời và bàn tay con người. Nó là biểu tượng của sự thanh sạch, của tinh thần “ăn Tết để gột rửa, để bắt đầu lại”.

Mỗi khi mùa Đoan Ngọ đến, người Việt lại bày bánh ú tro lên bàn thờ, không chỉ để tưởng nhớ tổ tiên mà còn để nhắc nhau về cội nguồn. Và nếu bạn đang chuẩn bị cho hành trình khám phá ẩm thực truyền thống khắp ba miền, đừng quên mang theo chiếc vali chất lượng từ MIA.vn, người bạn đồng hành bền bỉ trên mọi nẻo đường.